Thực hiện Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2021 của Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang tổ chức lấy ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, có 07 lượt ý kiến đóng góp. Đa số ý kiến tán thành với nội dung quy định của dự thảo Luật; đánh giá cao tiếp thu chỉnh lý, giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xin tổng hợp báo cáo một số nội dung chính như sau:
- Khoản 1, sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 4
Sửa đổi, bổ sung khoản 20
Đề nghị bổ sung cụm từ “có danh tiếng” vào sau cụm từ “Nhãn hiệu nổi tiếng” sau khi hoàn chỉnh “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu có danh tiếng được bộ phận công chúng có liên quan biết đến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam”. Vì khi bổ sung nội dung này sẽ giúp phân biệt rõ hơn giữa các nhãn hiệu có danh tiếng được người tiêu dùng biết đến sử dụng và các nhãn hiệu không nổi tiếng nhưng vẫn được nhiều người tiêu dùng biết đến và sử dụng rộng rãi. Mặt khác, giúp người tiêu dùng tránh nhầm lẫn giữa nhãn hàng nổi tiếng và bình dân.
- Khoản 5, sửa đổi bổ sung Điều 20
Đề nghị bổ sung thêm vào khoản 5 quy định về quyền tài sản trong trường hợp tác phẩm của đồng tác giả. Vì theo, quy định tại Điều 3 của Luật có đề cập đến tác giả và đồng tác giả, theo đó, khi 1 tác phẩm được sở hữu chung của đồng tác giả sẽ không thể khai thác riêng lẽ từng phần đối với quyền tài sản của tác phẩm đó. Việc khi 1 tác giả (trong đồng tác giả) muốn sử dụng tác phẩm về quyền tài sản theo quy định tại Điều 5 của Luật (như cho phép xuất bản, sao chép, biểu diễn, làm tác phẩm tái sinh...) thì phải được sự đồng ý của các đồng tác giả còn lại. Do đó, việc bổ sung quy định về quyền tài sản đối với trường hợp 1 tác phẩm của nhiều tác giả là điều cần thiết, nhằm tránh những tranh chấp không cần thiết xảy ra.
- Khoản 31, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 72
Dự thảo bổ sung điều kiện để nhãn hiệu được bảo hộ theo đó “dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa”. Theo lý giải tại tờ trình, việc bổ sung dấu hiệu này để phù hợp cam kết Việt Nam khi gia nhập Hiệp định CPTPP.
Tuy nhiên, quy định bổ sung này cần được xem xét dưới góc độ sau: Chỉ giới hạn bảo hộ dấu hiệu âm thanh thể hiện dưới dạng đồ họa là phạm vi khá hẹp và chưa thực sự phù hợp với cam kết tại Hiệp định CPTPP, cụ thể: Điều 18.18 Hiệp định CPTPP có nêu “Không bên nào được yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được, cũng như không bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh … Một bên có thể yêu cầu phải có bản mô tả ngắn gọn và chính xác, hoặc bản thể hiện dưới dạng đồ họa, hoặc cả hai nếu phù hợp, của nhãn hiệu”. Như vậy, hình thức của dấu hiệu âm thanh được bảo hộ có thể là “bản mô tả hoặc bản thể hiện dưới dạng đồ họa, hoặc cả hai nếu phù hợp”. Do đó, để phù hợp với cam kết. Đề nghị sửa đổi quy định trên theo hướng “dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa hoặc bản mô tả hoặc cả hai”.
Đề nghị bổ sung cụm từ “được và nghe được” vào sau cụm từ “Là dấu hiệu nhìn thấy…” sau khi hoàn chỉnh “Là dấu hiệu nhìn thấy được và nghe được…”.
- Khoản 33, Sửa đổi, bổ sung một số nội dung khoản 2, Điều 74
Sửa đổi điểm e, khoản 2, Điều 74
Có quy định “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của tổ chức, cá nhân khác được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” là một trong các dấu hiệu khiến nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt.
Việc sử dụng cụm từ “trên cơ sở đơn đăng ký…Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” là không cần thiết và khiến cho quy định này sẽ khó thực hiện khi Luật có hiệu lực thi hành. Bởi vì:
Quy định này nhằm mục tiêu ngăn cản việc cấp bảo hộ cho nhãn hiệu xin đăng ký bị xem là tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu khác đã đăng ký. Về mặt logic, nhãn hiệu xin đăng ký A2 bao giờ cũng nộp đơn sau nhãn hiệu A1 (với điều kiện hàng hóa/dịch vụ mang A1 và A2 trùng hoặc tương tự với nhau và A2 đủ khả năng nhầm lẫn với A1). Do vậy, không cần phải có quy định trên. Từ những phân tích trên, đề nghị bỏ cụm từ “trên cơ sở đơn đăng ký…Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
- Khoản 36, sửa đổi, bổ sung Điều 86
Đề nghị chọn phương án 2. Vì phương án này quy định cụ thể chi tiết về quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí hơn phương án 1, theo đó, quy định cụ thể tại khoản 2 “Chính phủ quy định quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra do sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí từ ngân sách nhà nước”, trong khi phương án 1 thì không có quy định.
6. Khoản 39, bổ sung Điều 89a
Quy định, cá nhân, tổ chức chỉ được phép đăng ký sáng chế của mình “mà có ảnh hưởng đáng kể đến an ninh, quốc phòng của Việt Nam ra nước ngoài nếu đã nộp đơn yêu cầu cơ quan xác lập quyền sở hữu công nghiệp xác định sáng chế đó không phải là sáng chế mật và đã kết thúc thời hạn 6 tháng kể từ ngày nộp đơn đó”. Tổ chức, cá nhân sẽ được đăng ký sáng chế mật ở nước ngoài khi đáp ứng điều kiện: Nước đăng ký có quy định về bảo hộ sáng chế mật; được cơ quan có thẩm quyền cho phép.
Đây là quy định mới so với luật hiện hành, sẽ tác động đến cá nhân, tổ chức có sáng chế muốn đăng ký tại nước ngoài. Để các đối tượng này có thể nhận biết được các quy định và áp dụng thuận lợi trên thực tế. Đề nghị cân nhắc, xem xét ở một số điểm sau: Theo quy định thì những sáng chế có ảnh hưởng đáng kể đến an ninh, quốc phòng thì phải thực hiện thủ tục xin xác nhận của cơ quan xác lập quyền sở hữu công nghiệp xác định sáng chế đó không phải là sáng chế mật. Như vậy, các tổ chức, cá nhân phải nhận diện được loại sáng chế nào thuộc đối tượng phải thực hiện thủ tục này. Tuy nhiên, trong Luật lại chưa có quy định nào quy định về vấn đề này, điều này có thể gây lúng túng cho cá nhân, tổ chức có sáng chế muốn đăng ký ở nước ngoài khi thực hiện.
Luật quy định thời hạn kết thúc 06 tháng kể từ ngày nộp đơn mới được phép đăng ký sáng chế ở nước ngoài. Không rõ việc đặt ra thời hạn này hướng đến mục tiêu quản lý nào? Nếu sáng chế được cơ quan xác lập quyền sở hữu công nghiệp xác định không phải là sáng chế mật thì tại sao cá nhân, tổ chức lại phải chờ hết thời hạn 06 tháng kể từ ngày nộp đơn mới được thực hiện việc đăng ký sáng chế đó ra nước ngoài?.
Theo quy định thì kể cả trong trường hợp sáng chế được xác định là sáng chế mật thì tổ chức, cá nhân có sáng chế vẫn được phép đăng ký khi “được cơ quan có thẩm quyền cho phép”. Đây được xem là ngoại lệ nhưng không có quy định về những trường hợp nào thì được cơ quan có thẩm quyền cho phép? Thủ tục cho phép này có nằm trong thủ tục xem xét sáng chế đó thuộc trường hợp sáng chế mật hay không? Hay là một thủ tục riêng?
Mặc dù, khoản 3 đã trao quyền cho Chính phủ quy định cụ thể về sáng chế mật và kiểm soát an ninh đối với sáng chế trước khi đăng ký ra nước ngoài, đây là chế định mới, có tác động đến các tổ chức, cá nhân có sáng chế. Vì vậy, đề nghị cần làm rõ những vấn đề nêu trên để đối tượng chịu tác động có thể hình dung được việc định hướng các chính sách.
7. Khoản 50, sửa đổi, bổ sung Điều 112 và khoản 51, bổ sung Điều 112a
Việc phản đối (đặc biệt là phản đối nhãn hiệu) theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ và thực hiện trên thực tiễn chưa thực sự mang tính chất là một thủ tục độc lập, giống các thủ tục khác như: Chấm dứt hiệu lực, hủy bỏ hiệu lực hoặc khiếu nại. Pháp luật về sở hữu trí tuệ chỉ xem phản đối là việc cho phép bên thứ ba có ý kiến với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn thẩm định nội dung và đây chỉ là nguồn thông tin bổ sung phục vụ cho việc thẩm định.
Việc quy định ý kiến phản đối được xem xét trong thời gian thẩm định về nội dung có một số bất cập như thời hạn cho phép phản đối quá dài (tương ứng với thời gian thẩm định nội dung), điều này có thể khiến quy định bị lạm dụng và làm cho quá trình thẩm định nội dung trước khi cấp văn bằng bảo hộ bị kéo dài gây ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức, cá nhân nộp đơn đăng ký.
Việc tách quy định để phân định ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ và phản đối đơn đăng ký sở hữu công nghiệp là hợp lý vì ý kiến của người thứ ba thực chất không mang bản chất của thủ tục phản đối mà chỉ là ý kiến mang tính chất nguồn thông tin tham khảo. Đề nghị cân nhắc, xem xét quy định về thủ tục phản đối sẽ bắt đầu từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn tất thẩm định nội dung bằng việc thông báo dự định cấp văn bằng bảo hộ. Bên cạnh giải quyết được vướng mắc trên thì cách tiếp cận này sẽ xây dựng được cơ chế phản đối linh hoạt: Tách bạch và độc lập kết quả thẩm định nội dung với thủ tục phản đối; giúp quá trình thẩm định thực hiện trên thực tế phù hợp với thời gian luật định.
8. Khoản 62, bổ sung Điều 131a
Đây là quy định mới so với Luật hiện hành, theo đó chủ văn bằng độc quyền sáng chế không phải nộp phí sử dụng văn bằng bảo hộ cho khoảng thời gian mà thủ tục đăng ký lưu hành lần đầu của dược phẩm được sản xuất theo bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam bị chậm. Để không phải nộp phí sử dụng văn bằng bảo hộ trong trường hợp này thì trong vòng 12 tháng kể từ ngày dược phẩm được cấp phép lưu hành, chủ bằng độc quyền sáng chế phải nộp cho cơ quan xác lập quyền sở hữu công nghiệp văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp phép lưu hành dược phẩm xác nhận về việc thủ tục đăng ký lưu hành dược phẩm đó bị chậm.
Trong quy định của pháp luật về dược không tìm thấy quy định cấp văn bản xác nhận về việc thủ tục đăng ký lưu hành dược phẩm bị chậm, chỉ có các quy định liên quan đến cấp mới, sửa đổi, gia hạn số đăng ký lưu hành dược phẩm. Vì vậy, đề nghị xem xét đến tính khả thi, thống nhất của quy định này.
9. Khoản 74, sửa đổi, bổ sung Điều 158
Đề nghị bổ sung cụm từ “giống cây trồng mới chưa được công nhận” vào sau cụm từ “Giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo…” sau khi hoàn chỉnh “Giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo giống cây trồng mới chưa được công nhận…” và bổ sung cụm từ “người phát hiện phát triển giống cây trồng mới” vào trước cụm từ “tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp” sau khi hoàn chỉnh “người phát hiện phát triển giống cây trồng mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp”.
10. Khoản 77, sửa đổi, bổ sung Điều 165
Đề nghị bổ sung nội dung “chuyên ngành nông nghiệp” tại Điểm c, Khoản 6 sau khi hoàn chỉnh “Có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành nông nghiệp”. Vì khi cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề đại diện quyền đối với giống cây trồng bên cạnh những hiểu biết về các quyền dân sự cơ bản như: Nhân thân, tài sản... Đối với giống cây trồng thì cũng cần phải có những hiểu biết chuyên môn về giống cây mà mình đang đại diện như điều kiện tự nhiên để phù hợp trồng trọt, cách trồng đạt hiệu quả cao, hiệu quả năng suất mà giống cây mang lại để trả lời cho người tiêu dùng khi có phản ánh, thắc mắc.
11. Khoản 88, sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 201
Theo Báo cáo tổng kết Luật Sở hữu trí tuệ “mặc dù cơ sở pháp lý cho việc xã hội hóa đối với hoạt động này tương đối đầy đủ, đồng bộ, song hiện nay cả nước mới chỉ có duy nhất một tổ chức giám định sở hữu công nghiệp là Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ”.
Có thể thấy, nhu cầu giám định sở hữu công nghiệp ngày càng tăng trong khi chủ thể cung cấp dịch vụ lại rất hạn chế. Trên thị trường hiện nay mới chỉ có một đơn vị trực thuộc cơ quan nhà nước cung cấp. Điều này có thể tạo ra sự độc quyền và không đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ trên lĩnh vực này. Nguyên nhân của thực trạng chưa được phân tích một cách rõ ràng, tuy nhiên một vấn đề cần được đánh giá về việc tại sao các doanh nghiệp tư nhân không tham gia/ không thể tham gia trong lĩnh vực này? Liệu các điều kiện kinh doanh có trở thành rào cản gia nhập thị trường của các doanh nghiệp dân doanh hay không?
Sửa đổi “có chức năng thực hiện hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động” thành “Có đăng ký ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ”. Mục tiêu của sửa đổi này nhằm thống nhất với Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định được sửa đổi này vẫn chưa hoàn toàn thể hiện tinh thần về quyền tự do kinh doanh của Luật Doanh nghiệp khi vẫn xem xét về ngành nghề đăng ký kinh doanh khi cấp phép. Để thống nhất hoàn toàn với Luật Doanh nghiệp, đề nghị sửa đổi quy định trên theo hướng: Được thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
12. Khoản 89, sửa đổi, bổ sung Điều 211
Đề nghị chọn phương án 1 quy định tại khoản 89. Vì phương án này đã quy định cụ thể và chi tiết những quyền và đối tượng bị xâm phạm sở hữu trí tuệ. Việc này, giúp cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng dễ dàng xác định, phản ánh hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ đến cơ quan có thẩm quyền. Mặt khác, việc quy định chi tiết này, cũng giúp cho các cơ quan chức năng dễ hơn trong xác định đối tượng và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ.
13. Một số góp ý khác
a) Quyền tài sản khoản 5, sửa đổi, bổ sung Điều 20
Khoản 2 Điều 20 (sửa đổi) quy định “Tổ chức, cá nhân khi khai thác sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1, Điều này và khoản 3 Điều 19 Luật này phải được sự cho phép và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả”.
Theo giải trình tại Tờ trình thì Luật đã sử dụng từ ngữ “tiền bản quyền” thay cho ba từ ngữ “nhuận bút”, “thù lao”, “quyền lợi vật chất” để “phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế”. Như vậy, “tiền bản quyền” đã bao gồm “các quyền lợi vật chất khác”, do đó quy định trên là thừa cụm từ “các quyền lợi vật chất khác”, do đó đề nghị bỏ cụm từ này.
b) Về quyền tác giả đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu khoản 5 sửa đổi, bổ sung Điều 22
Dự thảo bổ sung theo hướng “tổ chức, cá nhân đang có quyền sử dụng hợp pháp bản sao chương trình máy tính có thể làm một bản sao dự phòng để thay thế khi bản sao đó bị xóa, bị hỏng hoặc không thể sử dụng được, với điều kiện việc sử dụng bản sao dự phòng này không trái với thỏa thuận trong giấy phép và không được chuyển giao cho người khác”. Quy định “thỏa thuận trong giấy phép” là chưa rõ về khái niệm “giấy phép”, có được hiểu là văn bản cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng hợp pháp bản sao chương trình máy tính? Nếu theo cách hiểu này thì việc sử dụng cụm từ “giấy phép” là chưa phù hợp. Vì khái niệm này có tính chất như giấy phép của cơ quan nhà nước cấp cho tổ chức, cá nhân, trong khi đây là hoạt động dựa trên thỏa thuận của các bên, nhà nước sẽ không can thiệp theo hướng cấp phép.
Đề nghị sửa đổi cụm từ theo hướng “thỏa thuận với chủ sở hữu quyền tác giả” cho phù hợp với quy định của Bộ Luật Dân sự về quyền sở hữu.
c) Nghĩa vụ báo cáo của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan khoản 29 sửa đổi, bổ sung Điều 56
Quy định tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan tại điểm h, khoản 3 quy định “báo cáo theo định kỳ và đột xuất về hoạt động đại diện tập thể cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Theo quy định tổ chức này được thành lập dựa trên cơ sở thỏa thuận của các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, để bảo vệ quyền lợi của những đối tượng này. Với tính chất này, Luật yêu cầu tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ báo cáo định kỳ, đột xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chưa hợp lý, tạo gánh nặng về thủ tục hành chính cho tổ chức này và cũng không rõ mục tiêu quản lý (việc tổ chức này có làm đúng chức năng nhiệm vụ hay không, bảo vệ được quyền lợi của các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì cơ chế của pháp luật sẽ tự giải quyết). Vì vậy, để đảm bảo tinh thần đơn giản hóa thủ tục hành chính, đề nghị bỏ quy định này, tức bỏ điểm h, khoản 3.
d) Về nghĩa vụ bảo hộ dữ liệu thử nghiệm khoản 59 sửa đổi, bổ sung Điều 128
Liên quan tới nông hóa phẩm, pháp luật Việt Nam đã quy định bảo hộ dữ liệu nhưng chỉ trong trường hợp sử dụng vì mục đích thương mại không lành mạnh, và việc bảo hộ chỉ trong thời hạn 05 năm. Điều này là chưa tương thích với Hiệp định CPTPP.
đ) Điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp khoản 71, sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 154
Sửa đổi điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp từ có chức năng hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thành “Có đăng ký ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp” với mục tiêu là để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp.
Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ không xem xét ngành, nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh. Vì vậy, hiện nay trong các quy định pháp luật chuyên ngành, các cơ quan cấp giấy phép không còn xem xét yếu tố này khi cấp các loại giấy phép kinh doanh. Do đó, để thể hiện triệt để tinh thần trên của Luật Doanh nghiệp, đề nghị bỏ khoản 2.
Trên đây là tổng hợp ý kiến đóng góp dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ./.